Theo hồ sơ vụ việc, Trương Ngọc Tùng là kế toán trưởng công ty G. N. (một công ty kinh doanh các sản phẩm về sữa). Công ty G. N. đã hai lần vay ngân hàng B. Huế (tên ngân hàng được thay đổi) tổng số tiền 45 tỷ đồng nên cam kết: Mỗi lần nhận tiền vay bên vay phải ký giấy nhận nợ, kèm theo các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng tiền vay phù hợp với mục đích vay vốn, bên vay có thể nhận tiền vay nhiều lần nhưng đảm bảo mức dư nợ ở mọi thời điểm không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết.
Tùng có trách nhiệm lập chứng từ, tài liệu, ủy nhiệm chi, giấy rút tiền, giấy nhận nợ, bảng kê lương... cho công ty. lợi dụng chức năng, nhiệm vụ được giao và biết được các thủ tục cần làm khi vay và rút tiền, Tùng đã làm giả bộ chứng từ vay tiền của công ty G. N. bằng cách tải mẫu “Chứng từ giao dịch - Giấy rút tiền”, “Giấy nhận nợ” do ngân hàng B. Huế cung cấp qua địa chỉ email, điền các thông tin của công ty và số tiền Tùng dự định sẽ chiếm đoạt lên các chứng từ, tài liệu này, lập khống “Bảng kê chi tiết chuyển lương”, rồi giả chữ ký của giám đốc ký vào phần chủ tài khoản trên “Chứng từ giao dịch - Giấy rút tiền”; phần giám đốc công ty trên “Giấy nhận nợ” và phần xác nhận nhà phân phối trên “Bảng kê chi tiết chuyển lương". Sau khi lập hoàn chỉnh bộ chứng từ giả, Tùng đưa bộ chứng từ này cho nhân viên ngân hàng B. Huế làm thủ tục rút tiền.
Tiếp nhận bộ chứng từ do Trương Ngọc Tùng đưa tới, khi thẩm định hồ sơ, các nhân viên của ngân hàng B. Huế không phát hiện được các chứng từ, tài liệu này là do Tùng làm giả, nên đã làm thủ tục giải ngân tiền cho công ty G. N. theo chứng từ mà Tùng đã làm giả. Với thủ đoạn như trên, từ tháng 12/2020-5/2022, Tùng đã lập và làm giả 11 bộ chứng từ để chiếm đoạt số tiền 4,350 tỷ đồng của ngân hàng B. Huế.
Ngoài ra, lợi dụng việc được giám đốc công ty ủy quyền đi thực hiện các giao dịch tiền mặt của Công ty G.N tại ngân hàng B. Huế, Trương Ngọc Tùng nhiều lần thực hiện việc vay và rút tiền cho công ty từ ngân hàng B.Huế, khi nhận được tiền, Tùng đã không nộp đủ số tiền đã nhận vào tài khoản và quỹ tiền mặt của Công ty G.N để chiếm đoạt. Từ tháng 5/2020 - 4/2022, Tùng đã hàng chục lần thực hiện việc vay và rút tiền từ ngân hàng B. Huế nhưng nộp không đủ cho công ty G. N. hoặc rút tiền lương nhân công từ tài khoản thẻ mở tại ngân hàng này nhưng không nộp đủ vào quỹ tiền mặt cho công ty để chiếm đoạt số tiền hơn 550 triệu đồng.
Tổng số tiền mà Tùng chiếm đoạt của công ty G. N. là 4,910 tỷ đồng. Nhận được tiền, Tùng đã chiếm đoạt để tiêu xài, sử dụng hết vào mục đích cá nhân.
Sau khi bị công ty G.N phát hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, ngày 10/6/2022 Trương Ngọc Tùng đã đến trình diện tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tùng cũng đã tự nguyện nộp khắc phục thiệt hại cho công ty này hơn 1,376 tỷ đồng.
Theo lời khai của bị hại tại phiên tòa, vì quá tin tưởng bị cáo nên bị cáo đã lợi dụng lòng tin để chiếm đoạt và một phần cũng do hệ thống ngân hàng không thông báo tin nhắn để quản lý khoản tín dụng này mặc dù bị hại đã phản ánh với ngân hàng nhưng vẫn không được giải quyết nên đã để xảy ra vụ việc ngày hôm nay. Đại diện viện kiểm sát cũng nêu quan điểm và kiến nghị ngân hàng hỗ trợ một phần thiệt hại về lãi suất cho công ty G. N.
Hội đồng xét xử tuyên phạt Trương Ngọc Tùng 16 năm tù về tội “Tham ô tài sản” và 3 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Tổng cộng mức hình phạt Tùng phải chịu là 19 năm tù. Đồng thời, buộc Tùng phải bồi thường số tiền hơn 4,9 tỷ đồng cả gốc lẫn lãi mà công ty đã tất toán nhầm cho ngân hàng.