Tuy nhiên, chuyện về 7 gò mộ ở cánh đồng sau làng nhỏ hơn những gò mộ trước làng, nên trải thời gian mưa nắng mài mòn, cùng với sự phá hủy của con người đã dần bị biến mất.
Phía trước làng, tức phía Nam gồm có 3 gò mộ rất lớn. Chếch lên phía Bắc còn có một gò nữa, chỉ nhỏ hơn một chút. Mỗi gò mộ có tên riêng, đó là Phần Cựu, Phần Bụt, Phần Trung và Phần Đa, là nơi đặt cốt các vị vua Trần.
7 ngôi mộ nhỏ hơn ở phía sau làng, là nghĩa địa chôn Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, Trần Thừa cùng các công chúa, hoàng hậu thời Trần.
Về câu nói “Tiền tam thai, hậu thất tinh”, nhà nghiên cứu Đặng Hùng lại có cách lý giải hơi khác. Theo ông, đất Ngự Thiên (phủ Long Hưng) xưa được người đời truyền tụng là đất mả sao. Đó là các gò đống nổi lên, ở trên có các chòm cỏ xanh hình tròn, đường kính độ 1 mét, từ xa nhìn lại trông không khác gì các ngôi sao ở trên trời.
Vì thế đất có đặc điểm đó, nên còn có tên là hương Tinh Cương. Tinh có nghĩa là ngôi sao, Cương có nghĩa là gò đất nổi cao lên. Qua quá trình phù sa bồi đắp, đất Tinh Cương xưa có hình thế (theo cách gọi của các thầy địa lý Tàu) “Tiền tam thai, hậu thất tinh”, là đất phát tướng, phát vương.
Nếu theo cách lý giải của ông Hùng, thì cái hình thế “Tiền tam thai, hậu thất tinh”, ám chỉ các gò đất có trước thời Trần (hình thế đẹp nên tổ tiên nhà Trần mới mang mộ về đặt), hoặc câu đó không ám chỉ những gò mộ, mà ám chỉ thế đất.
Các cụ già người Tam Đường thì nhất nhất khẳng định câu nói đó ám chỉ các gò mộ. Theo các cụ, những năm 60 của thế kỷ trước, phía sau làng, gần sông Thái Sư vẫn còn các gò đất lớn. Dân làng đã phát động phong trào phá gò đống để mở rộng ruộng đồng. Quá trình san mộ làm ruộng cũng phát hiện quách đá, quách gỗ trong các gò đống. Thập kỷ 70, các nhà khoa học vẫn đào bới ở khu vực đó để tìm dấu tích các gò mộ.
Trong quá trình tìm hiểu về những gò mộ khổng lồ ở làng Tam Đường, tôi được nghe nhiều câu chuyện ly kỳ về “quả núi” có tên Phần Cựu. Đây là ngôi mộ lớn nhất ở làng, lớn gấp đôi những phần mộ còn lại. Tuy nhiên, người dân trong làng Tam Đường lại ít gọi bằng cái tên này, mà họ gọi là Phần Lợn. Chẳng lẽ người dân lại… xúc phạm vua bằng cách gọi như thế?
Chuyện rằng, vào thập kỷ 50 của thế kỷ trước, ông Tuyên là người chuyên nghề bắt rắn, đi soi cá lúc nửa đêm về sáng ở cánh đồng làng, bỗng gặp đàn lợn con nhởn nhơ… gặm cỏ. Ông cầm nơm (dụng cụ để bắt cá) đuổi theo và úp được một con. Những con lợn trong đàn sợ quá chạy te tua về phía Phần Cựu là lẩn hết vào những bụi cỏ, tìm mãi không thấy.
Ông Tuyên trói chú lợn con này lại rồi xách về nhốt trong nhà. Lạ thay, sớm hôm sau, con lợn biến thành cục vàng! Tuy nhiên, ngay hôm đó, ông Tuyên lăn ra ốm, nằm liệt giường liệt chiếu, cấm khẩu.
Gia đình sợ quá đi xem bói, thì thầy nào cũng phán đó là lợn thần, phải trả ngay. Lập tức, gia đình mang cục vàng chôn vào một chỗ bí mật trên gò mộ. Ông Tuyên tỉnh táo dần, rồi khỏe mạnh như thường.
Ông Tuyên mất năm 2005. Lúc còn sống, ông vẫn kể chuyện này cho mọi người nghe với thái độ rất nghiêm túc. Người dân trong làng Tam Đường đều biết đến câu chuyện của ông.
Ông Cường, ban quản lý khu di tích đền Trần chỉ cho tôi biết nơi từng có một “quả núi”, có tên Phần Cựu. Theo ông Cường, xưa kia, “quả núi” này cao vượt ngọn tre của làng. Gò mộ cao và to đến nỗi, có năm vỡ đê sông Hồng, nước dâng ngập nóc nhà, người dân trong làng kéo hết lên nóc ngôi mộ này lánh tạm. Cả làng dựng lều, nấu nướng, sống một thời gian dài trên đỉnh ngôi mộ.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, bộ đội ta còn mở đường để kéo pháo đặt trên đỉnh ngôi mộ này để bắn máy bay Mỹ cho… gần. Ngôi mộ cũng biến thành nơi bộ đội, dân quân tập luyện làm quen với môi trường núi non. Những tấm bia tập bắn được dựng lên dưới chân và lưng chừng mộ. Dân quân và bộ đội cứ tha hồ bắn mà không sợ đạn lạc đi nơi khác, bởi đã có “quả núi” án ngữ phía sau những tấm bia.
Thời kỳ đó, dù dân làng vẫn truyền miệng đây là những ngôi mộ vua, song không ai thờ cúng, không ai quản lý, nên chỉ coi đó là những quả núi đất bình thường. Trong quá trình bộ đội, dân quân và người dân đào đường dắt pháo lên gò mộ, rồi đào hầm trú ẩn, đã phát hiện ra những quách đá, quách gỗ, đường hầm trong mộ.
Phát hiện ra mộ cổ, các nhà khoa học ở trung ương đã về khai quật. Theo lời đồn của người dân thì các nhà khoa học đã mang đi không biết bao nhiêu đồ cổ thu thập được từ ngôi mộ này. Bảo tàng Thái Bình đã cất giữ bí mật nhiều đồ quý để sau này sẽ đưa về Tam Đường để du khách được chiêm ngưỡng.
Các nhà khoa học rút đi, ngôi mộ lại bỏ hoang phế. Điều đáng quan tâm là ngôi mộ này là một núi sỏi khổng lồ. Thời Trần, người ta đã chở hàng vạn tấn sỏi cuội từ Ninh Bình về đây, luyện với đất sét rồi đắp ngôi mộ thành quả núi.
Việc trộn đất sét với sỏi cuội sẽ khiến ngôi mộ được bền bỉ trước sự tàn phá của thiên nhiên, con người. Trải qua 700 năm, chiến tranh, con người tàn phá, đình đền, hoàng thành đổ nát, song những gò mộ vẫn đứng sừng sững. Quả là một công trình kỳ công, vĩ đại.
Thập kỷ 80, phong trào xây nhà bêtông bắt đầu rầm rộ ở Thái Bình. Để có nguyên liệu đổ mái, người dân Tam Đường đã ra mộ đãi đất lấy sỏi. Nhà máy đường Hưng Nhân cũng được xây dựng từ đá sỏi ở ngôi mộ này. Mấy chục ngôi nhà ở Tam Đường và nhà máy đường Hưng Nhân cũng chỉ dùng hết một góc nhỏ của ngôi mộ. Hiện những ngôi nhà làm bằng sỏi cuội lấy từ mộ vua vẫn còn ở Tam Đường.
Thời kỳ đó, đường làng Tam Đường lầy lội lắm, cứ mưa xuống là bùn ngập mắt cá chân. Thế là cả làng chở sỏi cuội rải đường. Ngôi mộ này đủ làm mấy kilomet đường làng, kéo ra tận tỉnh lộ. Những khối đá khổng lồ bị giật mìn nung vôi.
Theo cụ Lê Như Ngân, những phiến đá dựng mộ lớn khủng khiếp. Mộ to như một căn nhà, được xếp bằng các phiến đá. Có phiến đá rộng đến 15 mét vuông và dày nửa mét, được mài nhẵn, xếp khít. Gạch ngói xây mộ cũng rất đẹp, mang hình thù rộng phượng. Những khúc gỗ vàng tâm moi lên cưa xẻ làm vật dụng vẫn vàng ươm.
Vào năm 1980, người dân tiếp tục đào mộ đãi sỏi, làm lộ đường hầm ở Phần Đa. Theo cụ Ngân, quách đá của Phần Đa cũng rất lớn, gần bằng Phần Cựu. May mắn là các nhà khoa học đã kịp thời phát hiện, bảo vệ ngôi mộ này, nên giữ được đến ngày hôm nay.