Theo nhận định của Công ty Chứng khoán SSI, tốc độ giảm của lãi suất cho vay đã nhanh hơn trong tháng 7, song vẫn xuất hiện sự phân hóa khá rõ rệt.
Cụ thể, với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chất lượng tín dụng tốt, lãi suất cho vay đã giảm về khoảng 8 - 10%. Trong khi đó, các doanh nghiệp có chất lượng tín dụng kém hơn vẫn phải đi vay với mức lãi suất 12 - 15%.
Chuyên gia kinh tế, TS. Đinh Thế Hiển cho biết, trong điều kiện bình thường, nền kinh tế và các thị trường đều hoạt động ổn định với lãi suất thấp thì nhiều người đã vay tiền để đầu tư, đầu cơ. Nhưng khi thị trường bất động sản đã bị đẩy giá lên quá cao, dù lãi suất có giảm đến 50%, nhiều người vẫn không đủ tự tin vay tiền để mua bất động sản.
“Lãi suất giảm chỉ là điều kiện cần, không phải điều kiện đủ để kích thích dòng tiền vào bất động sản. Điều kiện đủ ở đây là thị trường có đủ hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư hay không. Cần nhớ trong kinh tế học, khi lượng đổi thì chất đổi, cái gì tăng mãi cũng sẽ đến lúc phải giảm và trả lại giá trị thật”, chuyên gia phân tích.
TS. Đinh Thế Hiển cũng chỉ ra, trong suốt một thập kỷ qua, giá bất động sản đã nhiều lần lập đỉnh. Vào năm 2013, giá bất động sản vẫn ở mức vừa phải để mua đầu tư hay khai thác cho thuê. Đến giai đoạn 2016 - 2018, giá địa ốc tăng tương đối mạnh; sang năm 2019 tăng chậm lại tưởng như sắp đảo chiều giảm thì giai đoạn 2020 - 2021 lại tăng mạnh lên.
“Giá bất động sản đã tăng quá nhiều, nhưng không có gì là tăng mãi. Nhiều người hiện đang tin rằng bất động sản Việt Nam khác quy luật kinh tế, chỉ có đi ngang hoặc đi lên chứ không bao giờ giảm. Nhưng thực tế đã xảy ra vào năm 2011 - 2013, lúc này rất nhiều đại gia bất động sản sụp đổ, sau đó giá giảm mạnh. Nếu chúng ta tin rằng bất động sản có một quy luật riêng là mỗi năm cứ tăng 10 - 15% chẳng hạn, thì rất dễ gặp phải cú sốc thứ hai”, chuyên gia nhấn mạnh.
Trong 2 quý đầu năm, ngành ngân hàng đã 4 lần hạ lãi suất điều hành, sử dụng các công cụ để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, đồng thời tích cực giảm lãi suất cho vay, tiết giảm chi phí, có tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp... Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng trong 7 tháng đầu năm chỉ đạt khoảng 4,6%, giảm đáng kể so với cùng thời điểm năm 2022 (9,54%). Trong khi đó, định hướng tăng trưởng tín dụng trong năm 2023 tới 14-15%, như vậy là hạn mức tín dụng trong những tháng cuối năm còn khá nhiều, trong khoảng 10%.
Hồi tháng 4/2023 vừa qua, tăng trưởng tín dụng là 3,03%, sang tháng 5 là 3,27% và trong tháng 6 là 4,73%. Nhưng bước sang tháng 7 chỉ còn 4,6%. Điều này cho thấy khả năng hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp đang rất yếu. Đây cũng là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2011 đến nay (ngoại trừ năm 2020).
Các chuyên gia dự đoán, từ nay đến cuối năm, thị trường sẽ không có gì đột biến, giao dịch có nhưng không nhiều. Sang năm 2024, diễn biến của thị trường còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô, bởi khó khăn hiện nay đã lan đến cả sản xuất, xuất nhập khẩu, thương mai dịch vụ, du lịch… Hầu hết các ngành kinh tế đều khó khăn thì tất nhiên cũng không có nguồn tiền đổ vào bất động sản. Bởi vì tiền đầu tư vào bất động sản phải chảy từ các ngành khác sang.
Chia sẻ tại hội thảo “Tăng cường khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của khu vực doanh nghiệp: Khó khăn, thách thức và quyết tâm” vừa qua do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, hiện các ngân hàng đang đứng giữa "2 dòng nước", vừa phải đảm bảo an toàn nợ xấu, vừa phải tăng trưởng, đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp.
“Để giải quyết vấn đề này cần phải tiếp tục có sự chung tay, đồng sức, đồng lòng, và sự nỗ lực hơn nữa của các bộ, ngành và các chủ thể trong nền kinh tế để giúp cho khu vực doanh nghiệp phục hồi ổn định và tiếp tục phát triển”, ông Đào Minh Tú nhấn mạnh.
Theo ông Đào Minh Tú, tình hình kinh tế trong và ngoài nước được dự báo tiếp tục có nhiều bất định, Việt Nam sẽ còn phải đối mặt với các khó khăn, thách thức từ nhiều phía. Nếu không tạo điều kiện cho tín dụng thì sẽ khó có tăng trưởng, nhưng nếu “tháo” điều kiện tăng trưởng thì nợ xấu tăng lên, tạo ra ách tắc cho nền kinh tế.